Tiền trong đời sống kinh tế - xã hội thời độc lập Tiền tệ Việt Nam thời Nguyễn

So với các triều đại trước, tiền tệ nhà Nguyễn rất phong phú. Nhờ sự phát triển của thương mại, kinh tế hàng hóa trong nước sôi động. Ngoài những đồng tiền căn bản là tiền đồng và tiền kẽm, còn có cả vàng và bạc dùng trong lưu thông. Nhà Nguyễn không đủ nguyên liệu làm tiền đồng lưu thông trên toàn quốc nên phải phát hành cả tiền kẽm làm đồng tiền cơ bản[1].

Việc đúc tiền được Gia Long giao cho thương nhân người Trung Quốc thực hiện và trả công cho họ[2].

Sau khi đúc xong, tỷ giá đổi giữa tiền đồng và tiền kẽm qua các đời là[3]:

  1. Từ thời Gia Longn thời Thiệu Trị: 1 tiền đồng = 1,2 đến 1,3 tiền kẽm
  2. Từ thời Tự Đức: 1 tiền đồng = 1,3 đến 1,4 tiền kẽm

Càng về sau, tỷ giá giữa hai đồng tiền càng cách biệt và triểu đình không kiểm soát nổi vì các nguyên nhân sau[2]:

  1. Cảnh giặc giã đói kém trong nước
  2. Người Pháp vào gây chiến dẫn đến loạn lạc đói kém
  3. Nạn đúc trộm tiền trong nước
  4. Nạn đúc trộm tiền kém phẩm chất của các thương nhân Trung Quốc: họ mua tiền đồng của Việt Nam về Trung Quốc, pha trộn thêm tạp chất rồi đúc tiền kém chất lượng, mang trở lại Việt Nam tiêu dùng lẫn lộn

Giá trị đồng tiền giảm sút khiến kinh tế trong nước bị suy thoái.

Hệ thống đo lường

Hệ thống đo lường thời Nguyễn dựa trên 2 tiêu chuẩn theo chỉ dụ của Gia Long năm 1813:

  • Cân thiên bình áp dụng cho những kim loại rẻ như sắt, đồng, kẽm, chì, thiếc
  • Cân trung bình áp dụng cho 2 kim loại quý là vàng và bạc

Theo hệ thống này, hệ thống đo lường ấn định như sau:

  • Tạ = 10 yến = 60,40 kg
  • Yến = 10 cân
  • Cân = 16 lạng
  • Lạng = 10 đồng cân
  • Đồng cân = 10 phân
  • Phân = 10 ly
  • Ly = 10 hào

So với hệ thống đo lường phương Tây, mỗi học giả/tổ chức khi đó quy đổi 1 lạng ta ra số gram khác nhau, dao động từ 37,75 gram đến 39,05 gram[4].

Tiền đồng

Dựa vào trọng lượng, tiền đồng nhà Nguyễn chia làm hai loại lớn và nhỏ. Tiền nhỏ từ 5 phân 5 li tới dưới 9 phân, còn tiền lớn từ 9 phân trở lên. Thỉnh thoảng có những đợt đúc thử nghiệm những đồng tiền 7 phân hay 1 đồng cân, nhưng sau đó triều đình thấy không thích hợp nên không đúc nữa.

Tiền đồng nhà Nguyễn chia ba loại:

  1. Loại tiền ghi rõ tỷ giá với tiền kẽm như lục văn, thập văn, các tiền Tự Đức bảo sao. Khi trị giá đồng tiền được đúc trên mặt gây những bất tiện về sau, đồng tiền sẽ được dân chúng ưa chuộng hoặc bị loại bỏ. Đây là đặc điểm chỉ bắt đầu có trong lịch sử tiền tệ Việt Nam từ thời Tự Đức[4].
  2. Tiền có ghi trọng lượng của đồng tiền như thất phân
  3. Tiền không ghi gì cả, nhưng dựa vào trọng lượng để xác định giá trị

Tiền kẽm

Tiền kẽm là tiền cơ bản, có đơn vị nhỏ nhất trong hệ thống tiền tệ nhà Nguyễn. Chỉ có tiền kẽm thời Gia Long có ghi chữ "thất phân" để chỉ trọng lượng, còn các tiền kẽm đời sau không ghi gì và thường chỉ nặng khoảng 6 phân[5].

Tiền kẽm chủ yếu đúc trong thời độc lập, gồm 4 triều vua đầu tiên là Gia Long, Minh Mạng, Thiệu TrịTự Đức[5].

Tiền cấm

Tiền do triều đình đúc là quan chế tiền. Tiền cấm là các đồng tiền vốn bất hợp pháp nhưng vì những lý do khác nhau vẫn được lưu hành[6]:

  1. Tiền cũ của nhà Tây Sơn, vì lưu lượng trong dân gian còn lưu hành rất nhiều nên không thể chấm dứt lưu hành ngay mà nhà Nguyễn cho phép lưu hành quá độ đến năm 1822 thì đổi sang tiền kẽm của nhà Nguyễn với tỷ lệ 2 đồng tiền đồng Tây Sơn = 1 đồng tiền kẽm nhà Nguyễn.
  2. Tiền do dân đúc trộm là tư chú tiền. Do nạn đúc trộm tiền quá nhiều, khó ngăn chặn, từ năm 1849 Tự Đức buộc phải cho phép dân tự đúc tiền kẽm, nhưng phải theo đúng trọng lượng.
  3. Tiền đồng, do thương nhân người Hoa đúc trộm là dị dạng tiền. Sau khi quân Pháp chiếm Nam Kỳ, tình hình càng hỗn loạn, thương nhân người Thanh lợi dụng làm tiền kém phẩm chất. Tự Đức ra lệnh khám xét các tàu buôn nhà Thanh, chặn các đồn ải để kiểm soát và cấm thương nhân di chuyển với số tiền quá lớn. Tới năm 1879, triều đình đành phải chấp nhận cho lưu hành dị dạng tiền (tiền đồng) ăn 3 tiền kẽm, với điều kiện đồng tiền đó khá giống đồng tiền Việt về phẩm lượng.

Thời Kiến Phúc, phụ chính Nguyễn Văn Tường nhận hối lộ của người Hoa, cho thương nhân nhà Thanh mang "tiền sềnh" niên hiệu Tự Đức của họ đúc sang, bắt nhân dân phải tiêu, ai không tiêu thì bắt tội[7]. Tiền này rất xấu, quá mỏng và nhẹ (chỉ trên dưới 1 gram), có thể nổi trên mặt nước[8]. Các giáo sĩ Công giáo nhân chuyện đồng tiền xấu đã tuyên truyền thêm trong dân về sự suy sụp của triều đình nhà Nguyễn[9]. Một số người đã lầm đây là tiền gián của thế kỷ 17-18 như tiền Thiên Thánh hay An Pháp nguyên bảo, nhưng các nhà nghiên cứu khẳng định tiền gián thế kỷ 17-18 vẫn còn nặng hơn, không nổi trên mặt nước như tiền sềnh mà người Hoa mang sang cuối thế kỷ 19[10].